Cách mạng Tháng Tám 1945 đã đưa dân tộc Việt Nam ra khỏi ách nô lệ, nhưng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ lập tức phải đối mặt với biết bao cơn bão. Chỉ ít ngày sau lễ độc lập, hơn hai triệu người chết vì nạn đói do phát xít Nhật gây ra, tài chính quốc gia cạn kiệt, 90% dân số mù chữ, hủ tục và tệ nạn xã hội còn tràn lan; bên ngoài, quân Pháp – Anh đe dọa tái chiếm, quân Tưởng kéo vào, các đảng phái phản động cấu kết phá hoại chính quyền cách mạng. Nhiều người ví vận mệnh Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong bối cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh – người vừa đọc Tuyên ngôn Độc lập – hiểu rằng nếu không xây dựng ngay thể chế dân chủ hợp hiến, chính quyền cách mạng sẽ khó đứng vững. Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhấn mạnh: cần tổ chức càng sớm càng hay một cuộc Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu. Chỉ bằng lời đề nghị ấy, Người đã thể hiện tầm nhìn vượt thời gian: trao quyền cho toàn dân bầu ra Quốc hội – cơ quan đại diện hợp pháp và là nền tảng của một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Với Hồ Chí Minh, nền độc lập chỉ trọn vẹn khi gắn với quyền dân chủ. Người đề xuất xây dựng một bản Hiến pháp dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, và cách tốt nhất để soạn thảo Hiến pháp là tổ chức bầu Quốc hội bằng phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân từ 18 tuổi trở lên, bất kể giới tính, giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc hay đảng phái, đều có quyền tham gia ứng cử và bầu cử. Ngày 08/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 14/SL, ấn định Tổng tuyển cử trong vòng hai tháng và lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Tiếp đó, các sắc lệnh về thể lệ bầu cử được ban hành, quy định hình thức phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín; đồng thời lùi ngày bầu cử sang đầu năm 1946 để người dân có thời gian chuẩn bị. Hồ Chí Minh vừa kiên quyết giữ mục tiêu tổng tuyển cử, vừa linh hoạt điều chỉnh thời gian, mở rộng quyền ứng cử để thu hút mọi tầng lớp và vô hiệu hóa luận điệu kích động “dân trí thấp không thể bầu cử”.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới việc động viên, giáo dục cử tri về ý nghĩa của Tổng tuyển cử và trách nhiệm công dân. Người khẳng định đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân có quyền cầm lá phiếu để lựa chọn người đại diện gánh vác việc nước. Trong buổi mít tinh tại Việt Nam Học xá ngày 05/01/1946, Bác nhắc nhở: phải hy sinh nhiều mới có quyền bầu cử, làm việc nước là hy sinh, phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung; những ai ham chức, ham quyền thì không nên bầu. Cùng ngày, Người ra lời kêu gọi quốc dân đi bầu cử với giọng văn thân tình: “Ngày mai là ngày vui sướng của đồng bào ta… Ngày mai dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng… Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”. Những lời nói giản dị ấy đã lay động hàng triệu trái tim, biến ngày bầu cử thành một ngày hội lớn của non sông.
Ngày 06/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu từ sáng sớm tại phố Hàng Vôi – trở thành cử tri số 1 của nước Việt Nam độc lập – rồi ghé thăm nhiều điểm bầu cử, thăm hỏi các em nhỏ cổ động. Mặc dù chiến tranh và nạn đói đang đe dọa, 89% cử tri cả nước vẫn tham gia bầu cử. Cuộc Tổng tuyển cử thành công rực rỡ, bầu được 333 đại biểu trong tổng số 403 đại biểu Quốc hội khóa I; thành phần rất đa dạng: 87% là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng; có 10 nữ đại biểu và 34 đại biểu dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với tỉ lệ phiếu cao nhất: 98,4%. Sự kiện này đánh dấu mốc son đầu tiên trong lịch sử thể chế dân chủ của đất nước, đưa người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành công dân của một nước độc lập, tự do, được quyết định vận mệnh mình.
Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I ngày 02/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ niềm tự hào và lòng biết ơn: “Cuộc quốc dân đại biểu đại hội này là kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam… Các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam”. Người khẳng định Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước và của nhân dân, có nhiệm vụ thể chế hóa ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành luật và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Với Người, Quốc hội là đại biểu chân chính của nhân dân cả nước và là biểu tượng của khối đại đoàn kết. Ở đó phải có đủ đại biểu của mọi giai cấp yêu nước, mọi dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các vùng miền để nhân dân cả nước đều thấy mình có mặt. Người nhấn mạnh: “Quốc hội đoàn kết nhất trí, toàn dân đoàn kết nhất trí, thì khó khăn nào chúng ta cũng khắc phục được và thắng lợi nhất định về tay ta”.
Là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh dành một tình cảm hết sức đặc biệt cho Quốc hội. Người coi đây là nơi hội tụ trí tuệ, nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân và luôn giáo dục đại biểu phải làm tròn trách nhiệm. Theo Người, Tổng tuyển cử là dịp để nhân dân lựa chọn người “có tài, có đức”, những người được bầu phải giữ vững độc lập của Tổ quốc, mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Trong những buổi nói chuyện với đại biểu, Hồ Chí Minh dặn dò: được bầu vào Quốc hội không phải là làm quan mà là được làm “người đầy tớ tuyệt đối trung thành của đồng bào”; phải “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội”. Người cũng khẳng định nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội nếu người đó không xứng đáng với sự tín nhiệm. Đó là những tiêu chuẩn vừa cao cả vừa gần gũi, đặt trách nhiệm của người đại biểu dưới sự giám sát thường xuyên của cử tri.
Sự gắn bó giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội còn thể hiện ở những hành động cụ thể. Khi một số làng ngoại thành Hà Nội đề nghị suy tôn Bác làm Chủ tịch vĩnh viễn và miễn ứng cử, Người đã trân trọng cảm ơn nhưng khẳng định mình cũng là công dân Việt Nam nên phải tuân thủ thể lệ bầu cử và chỉ ứng cử ở một nơi. Người luôn tuân theo nghị quyết của Quốc hội, coi Quốc hội là nơi quyết định những vấn đề hệ trọng nhất. Mỗi lần họp Quốc hội, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn dự, lắng nghe và phát biểu, nhắc nhở về đoàn kết, về thái độ phục vụ nhân dân. Ngay cả khi ở chiến khu Việt Bắc hay sang Pháp đàm phán, Hồ Chí Minh vẫn báo cáo tình hình với Quốc hội, xin ý kiến về các quyết sách lớn. Sự tôn trọng ấy cho thấy Người không đặt mình lên trên pháp luật mà hòa mình vào đời sống dân chủ của quốc gia.
Việc tổ chức Tổng tuyển cử và thành lập Quốc hội không chỉ có ý nghĩa nội bộ mà còn là lời tuyên bố với thế giới. Khi thực dân Pháp vu cáo chính quyền cách mạng “vô thừa nhận”, cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu đã chứng minh rằng Nhà nước Việt Nam được dựng lên bằng ý chí của nhân dân. Quốc hội do dân bầu đã bầu ra Chính phủ chính thức và thông qua Hiến pháp 1946 – bản hiến pháp đầu tiên của nước ta, quy định rõ các quyền dân chủ cơ bản, xác định mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Hiến pháp thể chế hóa Tuyên ngôn Độc lập 1945, khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi người. Nhờ có Quốc hội và Hiến pháp, chính quyền cách mạng trở nên chính danh, đủ tư cách đàm phán với Pháp và các nước khác, và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho toàn dân kháng chiến và kiến quốc.
Nhìn lại, có thể thấy quyết tâm tổ chức Tổng tuyển cử ngay trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” thể hiện bản lĩnh và tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh. Người tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân nên dám giao vận mệnh quốc gia cho lá phiếu của dân. Người hiểu rằng chỉ có nhà nước pháp quyền, có một Quốc hội hợp hiến thì chính quyền mới trường tồn và có đủ cơ sở đoàn kết toàn dân chống ngoại xâm. Đồng thời, Người vận dụng sách lược mềm dẻo: khi thế lực thù địch chống phá, Người chấp nhận hoãn thời gian bầu cử để chuẩn bị chu đáo, nhường chỗ cho một số đại biểu đối lập nhằm cô lập kẻ phá hoại và giữ vững khối đoàn kết. Bài học về kết hợp kiên định mục tiêu với linh hoạt phương pháp của Hồ Chí Minh vẫn còn giá trị hôm nay.
Trải qua gần tám mươi năm, Quốc hội Việt Nam đã kế thừa và phát triển những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Các nhiệm kỳ Quốc hội đã ban hành hiến pháp mới, hàng trăm bộ luật, nghị quyết; giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; thúc đẩy hội nhập, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng và mở rộng quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, tinh thần của Tổng tuyển cử năm 1946 và tình cảm của Bác Hồ vẫn luôn là ngọn lửa soi đường: mỗi đại biểu phải “một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, lắng nghe cử tri và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Người dân hôm nay, với quyền bầu cử và ứng cử, cần hiểu rằng lá phiếu của mình vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm; qua lá phiếu đó, chúng ta tiếp tục viết tiếp khát vọng độc lập, tự do và hạnh phúc mà thế hệ cha anh đã gầy dựng.
———————————————————–
Trung tâm Y tế Đặc khu Vân Đồn
Một số bài viết khác:
Cách sử dụng căn cước công dân thay thế mã số bảo hiểm xã hội
Xuyên đêm giông bão vượt biển, đội cấp cứu Trung tâm Y tế Đặc khu Vân Đồn kịp thời cấp cứu sản phụ khó sinh từ đảo Thắng Lợi
Những điểm mới, có lợi cho người tham gia BHYT từ ngày 15-8
NẮNG NÓNG KÉO DÀI – CẨN TRỌNG BẢO VỆ SỨC KHỎE, SỬ DỤNG ĐIỀU HÒA ĐÚNG CÁCH
Ngành Y tế chủ động đổi mới, đột phá thể chế, tăng tốc chuyển đổi số toàn diện
TỪ 15/8: THẺ BHYT CÓ THỂ BỊ THU HỒI, TẠM KHÓA NẾU SỬ DỤNG SAI QUY ĐỊNH